Thích Ca Mâu Ni Phật
(Thích ca Mâu Ni là tiếng Phạn, dịch: Năng Nhân-Tịch-Mặc, Thích Ca là họ, Mâu Ni là tên; Phật có nghĩa là: đấng giác ngộ, Đức Bổn Sư khi xưa là Thái Tử Tất Đạt Đa, ở xứ Trung „n Độ, nước Ca Tỳ La Vệ, cha là Vua Tịnh Phạn, mẹ là Ma Da Hoàng Hậu, Thái tử xuất gia lúc 19 tuổi, đến 30 tuổi thành đạo, thuyết pháp 50 năm trụ đời 80 tuổi. Đức Phật ra đời độ vô lượng chúng sanh, hiện nay đạo pháp của Ngài được khắp giới Á, Âu tôn trọng).
Kinh Phật Thuyết A Di Đà nói: “Từ đây thẳng về phương Tây, trải qua mười muôn ức cõi Phật, có thế giới tên là Cực Lạc. Cõi ấy có đức Phật hiệu là A Di Đà, hiện nay đương thuyết pháp. — Tại sao cõi kia gọi là Cực Lạc? Vì chúng sanh ở cõi ấy không có các sự khổ, chỉ hưởng những điều vui, nên gọi là Cực Lạc. — Đức Phật ấy vì sao hiệu là A Di Đà? Bởi ánh sáng của đức Phật này không lường, soi khắp mười phương quốc độ, không chỗ nào chướng ngại, nên hiệu là A Di Đà. Lại nữa, đức Phật kia cùng với nhân dân của ngài sống lâu đến không lường, không ngằn A Tăng Kỳ kiếp, nên gọi là A Di Đà. –Chúng sanh, sanh về cõi Cực Lạc, đều là bậc A bệ bạt trí, trong ấy hàng nhứt sanh bổ xứ rất nhiều, không thể dùng toán số tính biết được, chỉ có thể dùng số vô lượng vô biên A tăng kỳ để nói mà thôi. –Chúng sanh nào nghe kinh này, nên phát nguyện sanh về nước kia.–Tại sao thế? Vì được cùng các bậc người thượng thiện ở chung một chỗ.
Nếu có người thiện· nam thiện nữ nào nghe nói đến Phật A Di Đà, giữ niệm danh hiệu, hoặc một ngày, hai ngày, ba ngày cho đến bảy ngày, một lòng không loạn, khi người ấy mạng chung, Phật A Di Đà cùng các Thánh Chúng hiện ở trước. Bấy giờ kẻ ấy lòng không điên đảo, liền được sanh về cõi Cực Lạc.
Chúng sanh các· ngươi! Nên tin kinh “Xưng Tán Bất Khả Tư Nghì Công Đức, Nhất Thiết Chư Phật Sở Hộ Niệm” này.
Kinh Đại Tập nói:· Hành giả ngồi ngay thẳng, chuyên tâm tưởng đức Phật A Di Đà, tướng đẹp như thế, oai nghi như thế, đại chúng như thế, thuyết pháp như thế, tưởng niệm như vậy, tâm tâm nối nhau, thứ lớp không loạn, sẽ thấy được Đức Phật kia. Ví như trong đời có người nam hay nữ đi xa ở xứ khác, trong giấc mơ thấy nhà cửa của mình. Lúc bấy giờ thật ra người ấy chẳng biết là đêm hay ngày, là ngoài hay trong, tường vách núi đá không thể che ngăn, cho đến sự tối tăm mù mịt không làm chướng ngại. Hành giả mỗi niệm cứ huân tu như thế, lâu ngày sự quán tưởng sẽ sáng suốt lanh lẹ, kết qủa thấy được đức Phật Di Đà.
Kinh Thập Lục Quán· nói: –Muốn sanh về Cực Lạc, phải tu ba thứ phước:
1)Hiễu dưỡng cha mẹ, phụng thờ Sư trưởng, tâm từ bi không giết hại, tu mười nghiệp lành. 2) Thọ trì tam quy, giữ trọn các giới, đừng phạm oai nghi. 3) Phát lòng bồ đề, tin sâu lý nhân qủa, đọc tụng kinh Đại thừa, khuyến tấn người tu hành.
Ba điều trên đây gọi là tịnh nghiệp.
Kinh Bảo Tích nói:· — Bấy giờ Di Lặc Bồ Tát bạch Phật rằng: “Bạch đức thế Tôn! Như Thế Tôn đã nói những công đức lợi ích của Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc. Lại bảo: Nếu có chúng sanh nào phát mười thứ tâm, một lòng chuyên niệm hướng về Phật A Di Đà, khi người ấy mạng chung sẽ được sanh về thế giới của đức Phật kia. Bạch đức Thế Tôn! Thế nào là phát mười thứ tâm, và do tâm này sanh về Cực Lạc?” –Phật bảo: “Này Di Lặc! Mười thứ tâm ấy không phải hạng người phàm phu, bất thiện có thể phát được. Những gì là mười tâm: Đối với chúng sanh khởi lòng đại từ không làm tổn hại. Đối với chúng sanh khởi lòng đại bi không làm bức não. Với chánh pháp của Phật khởi lòng hộ trì không tiếc thân mạng. Với tất cả pháp lành sanh lòng thắng nhẫn, không chấp trước. Tâm an vui trong sạch, tôn trọng, không tham lợi dưỡng, sự cung kính. Tâm cầu chứng trí của Phật, trong tất cả thời không xao lãng. Đối với tất cả chúng sanh hằng tôn trọng cung kính, không khinh rẻ là hèn thấp. Không say đắm theo thế luận, đối với phần bồ đề sanh lòng quyết định. Tâm thanh tịnh tu các căn lành, không hề tạp nhiễm. Đối với các đức Như Lai, xả lìa các tướng, lòng tùy niệm.
Di Lặc! Đó là mười thứ phát tâm của Bồ Tát, do tâm nào sẽ được sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà. Di Lặc! Nếu có người nào trong mười tâm này, tùy ý thành tựu được một tâm, ưa thích muốn về Cực Lạc, quyết không lẽ nào không được vãng sanh.
Đạo Sư A Di Đà Phật
(A Di Đà là tiếng Phạn, dịch: Vô Lượng Thọ hoặc Vô Lượng Quang. Ngài là vị giáo chủ ở thế giới Cực Lạc về phương Tây. Theo Kinh Cổ Âm Vương thì đời qúa khứ có nước Diệu Hỉ, vị quốc vương là Kiều Thi Ca. Bấy giờ có Phật Tự Tại Vương ra đời. Kiều Thi Ca xuất gia đầu Phật, hiệu là Pháp Tạng. Lại Kinh Vô Lượng Thọ nói: “Pháp Tạng Tỳ Khưu ở nơi Phật Thế Tự Tại Vương phát lòng bồ đề, lại phát 48 lời nguyện, mỗi nguyện đều nói: “nếu không được như thế, tôi thề không thành Phật”. Những đại nguyện ấy đã thành tựu, và ngài Pháp Tạng đã thành Phật tức là Đức A Di Đà ở nơi thế giới Cực Lạc hiện nay).
*Theo kinh Vô Lương Thọ, 48 đại nguyện của Đức A Di Đà, có mấy điều thiết yếu sau đây: Nguyện thứ 18 – Khi tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương hết lòng tin ưa muốn sanh về nước tôi, xưng danh hiệu tôi cho đến mười niệm, nếu không được vãng sanh, tôi thề không thành chánh giác. Nguyện thứ 19 – Khi tôi thành Phật, chúng sanh trong mười phương phát lòng Bồ Đề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện cầu sanh về nước tôi, đến lúc lâm chung, nếu tôi không cùng thánh chúng hiện ở trước người ấy tiếp dẫn, tôi thề không thành chánh giác. Nguyện thứ 21 – Khi tôi thành Phật, hàng nhân thiên trong nước tôi thảy đều đủ 32 tướng đại nhân, nếu chẳng được như thế, tôi thề không thành chánh giác. Nguyện thứ 27 – Khi tôi thành Phật, từ hàng Nhân Thiên cho đến tất cả muôn vật trong nước tôi, hình sắc đều tốt đẹp, nghiêm sạch sáng rỡ, vi diệu cùng cực, không thể tính kể. Nếu những chúng sanh chứng được thiên nhãn mà có thể biện thuyết rõ ràng được sanh số, tôi thề không thành chánh giác. Nguyện thứ 32 – Khi tôi thành Phật, từ cõi đất lên đến hư không, những cung điện lầu quán, ao nước cây hoa, tất cả vạn vật đều do vô lượng tạp bảo, trăm ngàn thứ hương hoa hiệp tạo thành, nghiêm đẹp kỳ diệu, hơn các thiên cung. Mùi hương trong nước tôi lan tỏa khắp mười phương thế giới, các Bồ Tát tiếp xúc được hương ấy, đều tu Phật hạnh. Nếu chẳng được như thế, tôi thề không thành chánh giác. Nguyện thứ 39 – Khi tôi thành Phật, hàng nhơn thiên trong nước tôi đều hưởng sự an vui như bậc lậu tận tỳ khưu. Nếu chẳng được như thế, tôi thề không thành chánh giác.
Quán Thế Âm Bồ Tát
(Trong Kinh Bi Hoa, về kiếp qúa khứ, thuở đời Phật Bảo Tạng, khi đức A Di Đà còn làm Luân Vương, thì Bồ Tát làm vị Thái tử thứ nhất của Ngài, hiệu là Bất Thuấn. Lúc Thái tử đối trước đức Bảo Tạng phát đại nguyện rồi, Phật liền ban cho danh hiệu là Quán Thế Âm. Hiện tại, Bồ Tát ở cõi Cực Lạc phụ giúp Phật A Di Đà mà hoằng hóa và tiếp dẫn chúng sanh. Về sau, Bồ Tát kế vị đức A Di Đà mà thành Phật, hiệu là Biến Xuất Nhất Thế Công Đức Sơn Vương Như Lai; thế giới Cực Lạc đổi tên lại là Nhất Thế Trân Bảo Sở Thành Tựu. Về phần nhân hạnh qủa đức cùng sự ứng hóa của Bồ Tát, trong kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, và Đại Bi có nói đến)
Kinh Đại Bi Đà La Ni· nói: “Nếu chuyên xưng danh hiệu và cúng dường đức Bổn Sư ta là Phật A Di Đà, thì sẽ được vô lượng phước, tiêu trừ vô lượng tội, khi mạng chung lại được vãng sanh về cõi Cực Lạc. Bấy giờ đức Như Lai đưa tay tiếp dẫn và xoa đầu kẻ ấy mà bảo rằng: “Người đừng sợ hãi, vì đã được sanh về nước ta”. Kinh Quán Thế Âm Bồ Tát Thọ· Ký nói: “Kẻ nào phát lòng vô thượng Bồ Đề, nguyện sanh về Cực Lạc, đều được thấy cõi ấy, lại thấy Phật A Di Đà cùng các hàng Bồ Tát và Thanh Văn. Người đó thấy như thế rồi, vui mừng khấp khởi, xướng lên rằng: “Nam Mô A Di Đà Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri!” Bấy giờ trong pháp hội có 84.000 chúng sanh đều phát lòng bồ đề, nguyện trồng căn lành để được vãng sanh về Cực Lạc.
Đại Thế Chí Bồ Tát
Trong Kinh Bi Hoa, về kiếp qúa khứ, thuở đời đức Phật Bảo Tạng, khi đức A Di Đà còn làm Luân Vương, thì Bồ Tát làm vị Thái tử thứ hai của Ngài, hiệu là Ma Ni. Lúc Thái tử Ma Ni đối trước với đức Phật Bảo Tạng phát thệ nguyện rồi, Phật liền ban cho danh hiệu là Đắc Đại Thế, và thọ ký cho sau thành Phật hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương. Hiện tại, Bồ Tát ở cõi Cực Lạc phụ giúp Phật A Di Đà hoằng hóa và tiếp dẫn chúng sanh. Về sau Bồ Tát thành Phật kế đức Quán Thế Âm, thế giới, thời kiếp và Phật sự cùng Phật Công Đức Sơn Vương đồng. Trong kinh Lăng Nghiêm, Bồ Tát nói pháp Môn niệm Phật thật rất là tinh khiết, người tu tịnh nghiệp nên tuân theo).
Kinh Lăng Nghiêm· nói: “Tôi nhớ hằng hà sa kiếp về trước, có mười hai đức Như Lai nối nhau ra đời trong một kiếp, vị đầu tiên là Vô Lượng Quang, vị Phật rốt sau hiệu là Siêu Nhựt Nguyệt Quang. Đức Phật sau này dạy tôi pháp môn Niệm Phật tam muội. Ví như có hai người, một kẻ chuyên nhớ, một kẻ chuyên quên, hai người ấy dù gặp nhau cũng như không gặp, thấy cũng như không thấy. Nếu hai người đều nhớ nhau, sức nhớ tưởng càng sâu, thì từ đời này đến đời khác, hai kẻ ấy đồng như hình với bóng, không xa rời nhau được. Các đức Như Lai trong mười phương mẫn niệm chúng sanh cũng như mẹ nhớ con, nếu con cứ lẩn tránh, dù mẹ có nhớ cũng không biết làm sao! Trái lại, nếu con nhớ mẹ, cũng như mẹ nhớ con, thì mẹ con đời đời chẳng cách xa nhau. Nếu tâm của chúng sanh hằng nhớ Phật, niệm Phật, thì đời này, đời sau, quyết định sẽ thấy Phật, cách Phật không xa, chẳng cần dùng phương tiện chi khác, tâm mình được khai ngộ. Như người nhuộm các thứ hương, thân kẻ ấy có mùi thơm đó là hương quang trang nghiêm. Chỗ bản nhân của tôi là dùng tâm niệm Phật được chứng vào vô sanh nhẫn, nay ở cõi này nhiếp thọ người niệm Phật đem về Tịnh độ. Nay Phật hỏi về viên thông, tôi không lựa chọn, nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối luôn được tam ma địa, đây là bậc nhất.
Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
(Văn Thù Sư Lợi có chỗ gọi là Mạn Thù Thất Lỵ, dịch là Diệu Đức hoặc Diệu Kiết Tường. Theo Kinh Bi Hoa, Bồ Tát khi xưa là thái tử Vương Chúng, con thứ ba của Luân Vương thời đức Phật Bảo Tạng. Khi Thái tử phát hoằng thệ ở trước Phật rồi, liền được đổi tên là Văn Thù Sư Lợi, và được thọ ký về sau thành Phật hiệu Phổ Hiện, ở thế giới Thanh Tịnh Vô Cấu Bảo Chi về phương Nam. Lại kinh Văn Thù Bát Niết Bàn nói: “Văn Thù Bồ Tát thị hiện sanh ở nước Xá Vệ, làng Đa La, làm con của Phạm Đức Bà La Môn, Bồ Tát từ hông bên mặt của mẹ sanh ra, thân sắt tử kim, biết nói liền lúc ấy. Lớn lên theo Phật xuất gia.
Kinh Hoa Nghiêm nói:· “Bấy giờ, ánh sáng chiếu qua ngàn thế giới, tất cả đức Văn Thù ở các cõi đều đồng thời đối trước Phật nói kệ rằng: “Trong tất cả oai nghi. Thường nhớ công đức Phật. Ngày đêm không xen hở. Nghiệp như thế nên tu”. Kinh Quán Phật Tam Muội Hải· nói: “Sau khi Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát này bỏ túc nhân, tự nói đã chứng được Niệm Phật Tam Muội, tất sanh về Tịnh Độ, đức Thế Tôn thọ ký rằng: “Ông sẽ được sanh về cõi Cực Lạc”. Bồ Tát liền đọc kệ phát nguyện:
“Tôi nguyện lúc mạng chung. Trừ tất cả chướng ngại. Thấy Phật A Di Đà. Sanh về cõi Cực Lạc. Khi đã về nơi ấy. Thành tựu các đại nguyện. A Di Đà Thế Tôn. Thọ ký cho thành Phật”. Trong Tịnh Độ Thánh Hiền Lục nói: “Đời Đường, Pháp Chiếu Đại sư· nhờ đức Văn Thù dùng thần lực nhiếp vào thánh cảnh ở non Ngũ Đài. Đại sư đảnh lễ Bồ Tát và thưa thỉnh về yếu môn tu hành. Đức Văn Thù bảo: “Nay ngươi nên niệm Phật, chính là lúc hợp thời, bởi các môn tu hành không chi hơn niệm Phật. Siêng năng cúng dường Tam Bảo, gồm tu phước huệ, hai điều này rất là cần yếu. Đời qúa khứ ta nhân cúng dường, quán tưởng và niệm Phật mà được Nhứt thế chủng trí. Cho nên tất cả pháp, pháp bát nhã ba la mật, môn thiền định rất sâu, cho đến chư Phật, đều từ nơi niệm Phật mà sanh. Thế nên biết niệm Phật là vua của các pháp”. Ngài Pháp Chiếu hỏi: “Đệ tử phải niệm như thế nào?” Bồ Tát bảo: — thế giới phương Tây có Phật A Di Đà. Nguyện lực của đức Phật ấy không thể nghĩ bàn, ngươi nên tưởng niệm chớ cho gián đoạn, khi mạng chung quyết định sẽ được vãng sanh không còn thối chuyển”. Nói rồi, Bồ Tát đưa cánh tay sắc vàng xoa đảnh ngài Pháp Chiếu và bảo rằng: “Do ngươi niệm Phật, không bao lâu sẽ chứng qủa vô thượng bồ đề”. Đại sư được thọ ký rồi, vui mừng đảnh lễ lui ra.
Phổ Hiền Bồ Tát
Theo kinh Bi Hoa, Bồ Tát khi xưa là Thái Tử Vẫn Đồ, con thứ tám của Vua Luân Vương, thời đức Phật Bảo Tạng. Sau Khi Thái tử đối trước Phật phát đại nguyện, liền được đổi tên là Phổ Hiền và được thọ ký về sau thành Phật hiệu là Trí Cang Hầu Tự Tại Tướng Vương ở thế giới Trí Thủy Thiện Trụ Tịnh Công Đức nơi phương Bắc. Lại theo Kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát đã là vị tả phụ của Phật Tỳ Lô Giá Na mà còn dùng mười đại nguyện vương khuyến dẫn hải chúng Bồ tát trong cõi Hoa Tạng đồng về Cực Lạc. Chúng ta là kẻ hạ phàm há chẳng phát nguyện làm theo ư?)
Kinh Hoa Nghiêm nói:· “Khi Phổ Hiền Bồ Tát khen ngợi công đức thù thắng của Như Lai rồi, liền bảo các Bồ Tát và ngài Thiện Tài rằng: “Nếu muốn thành tựu công đức ấy, phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn.
Kính lễ chư Phật Khen ngợi Như Lai Rộng tu sự cúng dường Sám hối nghiệp chướng Tùy hỉ các công đức Thỉnh Phật chuyển pháp luân Thỉnh Phật trụ ở đời Thường theo Phật tu học Hằng thuận các chúng sanh Hồi hướng khắp tất cả.
Nếu có người nào dùng lòng tin sâu, thọ trì đọc tụng đại nguyện này, cho đến biên chép bốn câu kệ, sẽ được mau tiêu trừ tội ngũ gián. Khi người ấy lâm chung, trong khoảng sát na rốt sau tất cả các căn thảy đề tan hoại, chỉ có đại nguyện này không rời bỏ nhau, liền được sanh về thế giới Cực Lạc”. Kinh Như Lai Bất Tư Nghì Cảnh· Giới nói: “Nếu có người vì cầu đạo vô thượng bồ đề, ở trong một việc chuyên tâm tu tập, tất sẽ được thành tựu. Ví như có người uống một bụm nước ở biển cả, tức là đã uống tất cả nước sông trong cõi Diêm Phù Đề. Nếu Bồ Tát có thể tu tập môn Niệm Phật bồ đề hải này, tức là đã tu tập tất cả tam muội, các nhẫn, các địa, các đà la ni.
Thich Ca Mau Ni Phat
July 21, 2008 by dinhdan
Leave a comment